Giống cóc ổi dầm, cà na đập thường được ăn với muối ớt và để được rất lâu trong tủ lạnh.
|
Saturday, September 24, 2016
Cà na đập
Chợ Châu Đốc chỉ có duy nhất một người bán cà na đập - món ăn được đặt tên theo cách chế biến. Quả cà na tươi, sau khi đập nát, vắt bớt nước và chà xát để ra hết chất chát thì đem dầm đường, chờ khoảng vài tiếng đồng hồ là có thể sử dụng.
Món này phải khéo léo sao cho quả cà na bị đập không quá nát, vẫn giữ màu xanh tươi sau khi chà xát, vắt nước nhưng hương vị còn nguyên, ăn vẫn giòn. Cà na đập ăn chung với muối ớt, vừa ngọt, vừa giòn rất ngon. Giá món này khá đắt, khoảng 100.000 đồng mỗi kg. Bạn có thể mặc cả nếu mua nhiều.
Mắm thái Châu Đốc
Mắm thái Châu Đốc
Nếu có dịp về Châu Đốc vãn cảnh núi Sam, chắc hẳn không một ai không nghe nhắc đến món mắm thái, một đặc sản của vùng sông nước Nam Bộ. Thật khó quên nếu một lần ăn mắm thái cùng thịt lợn luộc với rau thơm, vị ngọt thơm của cá pha lẫn vị béo từ thịt, hương thơm của rau và vị nồng của gừng xắt nhuyễn.
Mắm thái được làm từ cá lóc, cá bông tươi, đường, thính (gạo rang vàng giã nhuyễn) và đu đủ thái sợi, một cách chế biến thật giản dị, dân dã. Nhưng để mắm có chất lượng thơm ngon, để lâu không bị chua thì lại khác. Theo cô Bảy Sen, chủ nhân hiệu mắm “Bà giáo Khoẻ” thì cá lóc, cá bông làm mắm phải được chọn cá to mập, trắng và chế biến ngay khi cá còn sống. Sau đó muối cá khoảng 15 ngày cho thịt cá săn chắc rồi mới đem cá ra cắt bỏ da, xương, dùng nạc cá làm mắm. Tiếp tục trộn nạc cá với thính và ủ trong vòng 3 tháng để cá đượm mùi thơm thính rồi mới tiến hành chao mắm. Để mắm thơm ngon phải dùng đường thốt nốt và pha thêm đường cát trắng để mắm vừa thơm ngon, vừa có màu đỏ tươi thật hấp dẫn. Phần đu đủ phải được muối trước cả tháng rồi đem ép nước, phơi khô thái sợi mới trộn cùng đường và mắm.
Muốn mắm theo chân du khách thập phương đi xa thì công đoạn bao gói cũng là một bí quyết rất quan trọng để mắm bảo quản được lâu (khoảng 6 tháng) không có mùi ê chua và bọc mắm không trương phình lên. Hương vị mắm Thái Châu Đốc đang lan toả đến cả trời Âu, Mỹ, và cả Australia, đem lại niềm tự hào cho người dân Châu Đốc và làng mắm quê hương và thật khó quên trong khẩu vị thực khách gần xa.
Mắm thái được làm từ cá lóc, cá bông tươi, đường, thính (gạo rang vàng giã nhuyễn) và đu đủ thái sợi, một cách chế biến thật giản dị, dân dã. Nhưng để mắm có chất lượng thơm ngon, để lâu không bị chua thì lại khác. Theo cô Bảy Sen, chủ nhân hiệu mắm “Bà giáo Khoẻ” thì cá lóc, cá bông làm mắm phải được chọn cá to mập, trắng và chế biến ngay khi cá còn sống. Sau đó muối cá khoảng 15 ngày cho thịt cá săn chắc rồi mới đem cá ra cắt bỏ da, xương, dùng nạc cá làm mắm. Tiếp tục trộn nạc cá với thính và ủ trong vòng 3 tháng để cá đượm mùi thơm thính rồi mới tiến hành chao mắm. Để mắm thơm ngon phải dùng đường thốt nốt và pha thêm đường cát trắng để mắm vừa thơm ngon, vừa có màu đỏ tươi thật hấp dẫn. Phần đu đủ phải được muối trước cả tháng rồi đem ép nước, phơi khô thái sợi mới trộn cùng đường và mắm.
Muốn mắm theo chân du khách thập phương đi xa thì công đoạn bao gói cũng là một bí quyết rất quan trọng để mắm bảo quản được lâu (khoảng 6 tháng) không có mùi ê chua và bọc mắm không trương phình lên. Hương vị mắm Thái Châu Đốc đang lan toả đến cả trời Âu, Mỹ, và cả Australia, đem lại niềm tự hào cho người dân Châu Đốc và làng mắm quê hương và thật khó quên trong khẩu vị thực khách gần xa.
Bánh bò thốt nốt, đặc sản Châu Đốc
Bên cạnh đặc sản mắm làm nên thương hiệu ẩm thực Châu Đốc, mảnh đất này còn nổi tiếng bởi bánh bò thốt nốt vàng ươm khiến ai ăn đều gật gù khen ngợi.
Đến Châu Đốc, An Giang, qua các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên…, đâu đâu bạn cũng bắt gặp cây thốt nốt. Có thể nói thốt nốt là đặc trưng của người Khmer Nam Bộ và là loại cây đa dụng của vùng Thất Sơn huyền bí.
Trái thốt nốt được bày bán bên vệ đường.
|
Lá thốt nốt được dùng để lợp nhà, làm chất đốt, cây già làm cột nhà, làm bàn ghế… Riêng, trái thốt nốt để lại dư vị khó quên trong lòng du khách với những món ăn dân dã như: cơm (cùi) thốt nốt, nước thốt nốt tươi (hoặc lên men), đường tán, chè thốt nốt, bánh gói thốt nốt… Trong đó, món ăn gây ấn tượng cho du khách mỗi khi đến Châu Đốc trong mùa thu hoạch trái là bánh bò thốt nốt.
Theo các bà bán bánh nơi đây, làm món bánh bò thốt nốt hơi mất công một chút. Bánh gồm các nguyên liệu chính: bột gạo, bột thốt nốt, đường thốt nốt, nước cốt dừa, và phải tuân thủ theo đúng quy trình.
Làm bánh mất công nhưng khi ăn thì ai nấy đều thỏa mãn.
|
Trước tiên, gạo phải là gạo nàng Nhen cũ, đặc sản vùng Bảy Núi, xay thành bột. Mài trái thốt nốt già chín, gạn lấy bột. Đường thốt nốt chọn loại đường tán, không lẫn tạp chất và một ít nước cốt dừa. Cho tất cả hỗn hợp trên vào thau trộn đều cùng ít nước với tỷ lệ vừa đủ, ủ kín qua đêm.
Nên nhớ cần thêm một ít nước cơm rượu vào để bột lên men nhanh, và khi hấp chín, bánh xốp mới thơm ngon. Tiếp đến, dùng vá đổ bột vào khuôn tròn hay vuông tùy thích, cho vào xửng hấp chừng 20 phút, khi thấy mùi thơm tỏa lên ngào ngạt là chín. Cuối cùng, giở xửng lấy bánh ra, rắc một ít dừa nạo lên, và dùng “lá soong”, thứ lá đặc biệt ở vùng Châu Đốc, hoặc lá chuối xiêm gói bánh lại là xong.
Bánh bò thốt nốt có màu vàng ươm thơm ngon.
|
Cầm cái bánh bò thốt nốt màu vàng ươm còn nóng hổi đưa lên miệng nhai chậm rãi. Vị xôm xốp của bánh, ngọt béo của đường, của dừa, hòa lẫn mùi thơm thoảng đặc trưng của đường thốt nốt xông lên tận mũi, không lẫn vào đâu được.
Có dịp về miền Tây vào lễ hội vía Bà, bạn sẽ vô cùng thích thú khi được khám phá những di tích lịch sử văn hóa nơi đây cũng như những món ẩm thực độc đáo từ trái thốt nốt – đặc sản của vùng Bảy Núi này.
Bài và ảnh: Tương Tâm
Sunday, September 11, 2016
Những cây cầu có tên gọi độc đáo ở miền Tây
By Unknown 8:27:00 AM
An Giang, Cần Thơ, Châu Đốc, Châu Thành, Chùa Bà, ĐBSCL, Đi chơi, Đồng bằng sông cửu long, Hotel, Long Xuyên, Nệm, Núi Sam, Phượt, Tân Châu, Tiền Giang No comments
Trên những cung đường rong ruổi ở miền Tây Nam Bộ, bạn sẽ bất ngờ khi chợt thấy các cây cầu với cái tên kỳ lạ và đậm chất bản địa này.
Vốn là miền sông nước nên vịt được nuôi đại trà ở Đồng bằng sông Cửu Long nhưng hiếm thấy cầu mang tên đó. Ngược lại, những cây cầu có tên liên quan tới gà rất nhiều. Trên hình là cầu Mồng Gà ở huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
|
Cầu Cựa Gà nằm trên quốc lộ 1A từ thị trấn Cái Nước về huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.
|
Cái Gà nằm trên quốc lộ 1A về thành phố Bạc Liêu.
|
Không ít người thường thắc mắc vì sao ở đây lại dùng từ “Cái” rất nhiều, từ những vùng đất như Cái Răng, Cái Bè, Cái Nước, Cái Cui đến cây cầu tên Cái Da, Cái Xe, Cái Sơn đều có đủ. Cầu Cái Da cũng nằm trên quốc lộ 1A.
|
Lòng tong là một loài cá rất nhỏ, có mặt khắp nơi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long nên cũng không lạ khi một cây cầu mang tên nó. Cầu Lòng Tong thuộc tỉnh Cà Mau trên quốc lộ 1A.
|
Chắc Cà Đao là một vùng đất ở thị trấn An Châu, tỉnh An Giang. Cụm từ “chắc cà đao” ngày xưa thường được dùng bởi những người dân quê, ám chỉ một vùng đất xa xôi hẻo lánh ít dấu chân người. Cầu Chắc Cà Đao nằm trên quốc lộ 91 từ Long Xuyên về Châu Đốc, An Giang.
|
Trong khi TP HCM trang bị cầu chữ Y tả theo hình dáng chính ký tự này, đoạn quốc lộ 91 từ Long Xuyên về Châu Đốc cũng có cây cầu như vậy, nhưng uốn cong hình chữ S.
|
Dùng chữ cái để mô tả thì cầu hình ký tự Y, S, H, X đều đứng nhưng cầu Chữ U lại không. Đây chỉ là một cây cầu thẳng, nằm ở tỉnh An Giang đoạn từ Tri Tôn về Long Xuyên.
|
Cầu Ông U ở quốc lộ 1A trên đường về Cà Mau.
|
“Xẻo” cũng là một từ thường dùng ở đây, giống chữ “Cái”. Đi khắp miền Tây, bạn sẽ bắt gặp những cái tên như Xẻo Xu, Xẻo Cao, Xẻo Quýt, Xẻo Xiêm, Xẻo Rô… Cầu Xẻo Xu nằm trên quốc lộ 53, từ Tắc Cậu đi thị trấn Thứ Bảy, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
|
Cầu Cột Dây Thép là tên một địa danh di tích lịch sử gần đó. Đây là nơi các anh bộ đội và dân quân treo ngọn cờ Đảng đầu tiên ở tỉnh An Giang. Di tích gồm hai cột dây thép đối xứng nhau qua con sông Tiền ở huyện Chợ Mới, An Giang.
|
Một địa danh trên quốc lộ 54 từ thành phố Long Xuyên về Cần Thơ.
|
Khánh Bằng
Nguồn : Vnexpress
Ngắm Hoàng Hôn Giữa Ngã 3 Sông
Ngay thị xã Châu Đốc, nơi gặp gỡ của sông Tiền và sông Hậu, bạn có thể ngồi ở những khách sạn bên bờ sông, ngắm cảnh hoàng hôn buông xuống khiến cả một vùng nước sóng sánh ánh vàng. Lặng nghe tiếng mái chèo khua hay tiếng xuồng máy, như được thả hồn vào một vùng quê yên ả, thanh bình.
Theo Anh Phương
Saturday, September 10, 2016
Chiến tranh Việt – Xiêm (1833-1834)
Chiến tranh Việt – Xiêm (1833-1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Đại Nam (Việt Nam ngày nay). Đợt đầu khởi từ tháng 11 năm 1833, rồi tạm ngưng ngày nào chưa rõ. Đợt hai tấn công từ tháng Giêng năm Giáp Ngọ(1834), đến tháng Năm cùng năm thì kết thúc. Sau cùng, quân Việt chiến thắng[2]. TheoViệt sử tân biên, Quyển 4, thì:
“ |
Nhờ cuộc chiến thắng này, mà uy danh của chính quyền Việt Nam được nổi hơn bao giờ hết, các nước chư hầu càng thêm kính phục. Quốc vương Xiêm La phải cử một sứ bộ qua Huế xin giảng hòa...
| ” |
— Phạm Văn Sơn[
|
Bối cảnh
Lịch sử Xiêm vốn có quan hệ mật thiết với Campuchia (Chân Lạp), từ khi Chao Phraya Chakri lên ngôi (1782, sau đó lấy hiệu là Rama I) cho đến lúc Nguyễn Ánh xưng đế lấy hiệu là Gia Long (1802), trong giai đoạn đầu những năm 1800 này, Xiêm gần như độc quyền thao túng, chi phối tình hình chính trị quân sự ở Campuchia, trong khi Việt Nam đang trong tình trạng nội chiến giữa Nguyễn Ánh vàTây Sơn.
Năm 1796, Rama I đưa hoàng tử Ang Chan (sử nhà Nguyễn thường gọi là Nặc Chăn[4]), con trai của vua Ang Eng, lên làm vua Campuchia khi chỉ mới 5 tuổi. Xiêm còn cử viên quan Chân Lạp thân Xiêm tên là Pok làm quan nhiếp chính cho Chân Lạp mà hầu như không gặp cản trở gì. Trước đó vua Ang Eng cũng được nuôi dưỡng tại Băng Cốc từ nhỏ, các con của ông (Ang Chan, Ang Snuong, Ang Em, Ang Duong) cũng được nuôi dưỡng bởi triều đình Băng Cốc. Một trong những chính sách thực hiện từ lâu trong lịch sử quan hệ Xiêm - Chân Lạp là nuôi dưỡng, đào tạo các hoàng tử Khmer thân Xiêm để đưa lên ngôi vua Campuchia khi có điều kiện thuận lợi nhằm gây ảnh hưởng và thao túng vương quốc này.
Kể từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu về sau, các chúa Nguyễn dần lấy hết đất Chiêm Thành, lại lấn sang đất Chân Lạp. Do đó, theo Việt Nam sử lược thì:
Người Xiêm La có ý muốn ngăn trở để giữ lấy Chân Lạp làm của mình. Nhưng vì thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu để chúa Nguyễn sang bảo hộ Chân Lạp. Tuy vậy nước Xiêm La thường hay dùng những người phản đối với vua Chân Lạp, rồi giúp binh lực cho về làm loạn trong nước.
Nhiều khi quân Việt phải sang đánh đuổi quân Xiêm La để giúp quốc vương Chân Lạp. Cũng có khi quân Xiêm La sang đánh ở đất Hà Tiên, như năm Ất Mùi (1715), Tân Mão (1771)... Lại có khi sang sinh sự với những nước ở Lào. Hễ khi nào Xiêm và Lào đánh nhau, thì nhà vua sai quan quân phòng giữ những chỗ biên thùy, và sang cứu viện những nước bị người Xiêm bắt nạt, như năm Đinh Hợi (1827)...[5]
Do bị kiềm kẹp giữa hai quốc gia hùng mạnh, vua Ang Chan phải thi hành chính sách "chư hầu kép": đồng thời thần phục cả Xiêm lẫn Việt Nam. Năm 1807, Ang Chan quyết định ngã sang hẳn về phía Việt Nam bằng cách xin vua Gia Long cho thụ phong và cống nạp. Điều này được Việt Nam chấp nhận còn Xiêm tỏ ra khiên cưỡng, vì nó khiến cho ảnh hưởng của Xiêm tại Campuchia bị giảm sút nghiêm trọng. Từ thời vua Ang Eng cho đến khi vua Ang Chan lên ngôi, Xiêm đã tốn công nuôi dưỡng và xây dựng hệ thống quan Chân Lạp lại thân Xiêm, nay lại bị Việt Nam ảnh hưởng. Tuy nhiên, vua Rama I và Gia Long vốn có mối thâm tình thuở trước nên cả hai bên đã chấp nhận chia sẻ quyền lực tại Campuchia.
Sau khi vua Rama I mất (1809), vua Rama II lên nối ngôi, đã cho quân Xiêm hỗ trợ các em trai thân Xiêm của Ang Chan trở lại tranh giành ngôi vua Campuchia vào những năm 1812-1813, 1814 nhằm phá bỏ cục diện nói trên để giành lại ảnh hưởng ở Campuchia, nhưng không thành công.
Bên cạnh đó, do còn phải đương đầu với Miến Điện ở phía tây, Xiêm không tập trung sức lực trong việc cạnh tranh ảnh hưởng với Việt Nam được. Tuy nhiên sau khi Miến Điện thua Anh trong cuộc chiến 1824-1826, Xiêm quay sang bành trướng ở hướng đông.
Từ sau khi các vua Rama I, Rama II và Gia Long mất, quan hệ Xiêm - Việt không còn mối ràng buộc hữu nghị nữa. Các vua nối ngôi ở hai nước là Rama III và Minh Mạng đã đẩy quan hệ hai nước tới bờ vực chiến tranh.
Vua Xiêm mới là Rama III đã thẳng tay bình định cuộc nổi dậy của Chậu A Nụ (Anouvong, 1827-1829), biến Lào thành một tỉnh của Xiêm (1831). Đồng thời, Xiêm cũng chờ cơ hội thuận tiện để can thiệp quân sự vào Việt Nam.
Tháng 6 năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh chống vua Minh Mạng ở đất Gia Định. Vài tháng sau vì yếu thế, Lê Văn Khôi cho người sang cầu cứu Xiêm La. Không bỏ lỡ cơ hội, vua Rama III liền sai sai tướng (Chiêu) Phi Nhã Chất Tri (còn gọi là tướng Bodin, Chao PhrayaBodindecha) và Phi Nhã Phật Lăng (Phra Klang, Tish Bunnag) dẫn hàng ngàn quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang đánh Đại Nam.
Kế hoạch và lực lượng
Phía Xiêm La[sửa | sửa mã nguồn]
Gồm 5 đạo quân, có nhiệm vụ như sau:
- Đạo thứ nhất từ tỉnh Battambang[6], theo đường bộ vào Chân Lạp, chiếm Nam Vang, đi dọc sông Mê Kông xuống Châu Đốc để tới Gia Định. Đây là cánh quân quan trọng nhất, do Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha hay còn gọi là Bodin[7]) chỉ huy gồm 40.000 quân bộ binh.
- Đạo thứ nhì tiến bằng đường thủy, từ Chanburi qua vịnh Thái Lan tiến công vào Hà Tiên, với 10.000 quân thủy do Phi Nhã Phật Lăng(còn gọi là PhraKlang[8], Prayurawongse, Tish Bunnag, Bộ trưởng bộ Ngoại giao) chỉ huy.
- Đạo thứ ba theo đường bộ đánh lấy Cam Lộ (Quảng Trị).
- Đạo thứ tư theo đường bộ đánh lấy Nghệ An.
- Đạo thứ năm theo đường bộ đánh lấy Trấn Ninh.
Tuy rằng năm đạo trên cùng tiến, nhưng chủ đích chính là đánh lấy Chân Lạp và các tỉnh thuộc miền Nam nước Việt; nên chỉ có đạo quân thứ nhất và thứ hai là đông đảo và hùng mạnh; còn các đạo khác, chỉ cốt để phân tán lực lượng của quân Việt.
Trong cánh quân do tướng Bođin chỉ huy có hai hoàng tử Campuchia là Ang Em và Ang Duong đi cùng. Họ là những người đã chạy sang Xiêm cùng với anh trai Ang Suguon (Nặc Ong Nguyên) và sống ở Băng Cốc vào năm 1812 (Ang Suguon sau đó chết ở Xiêm năm 1822). Thêm vào đó còn có sự tham gia tích cực của hai viên quan người Campuchia tên là Kâu và Preah Ang Kêv Ma [9] (hai người đó rời bỏ Campuchia chạy đến tị nạn ở triều đình Băng Cốc, một năm trước đó). Bốn người này cầm đầu 4 phân đội tiến công vào Campuchia. Nhiệm vụ của các đội quân này là: "quét hết quân đội Việt Nam trong đất Campuchia" rồi tuyển thêm người Khmer bổ sung cho cánh quân này, sau đó vượt Campuchia sang chiếm thành Châu Đốc nằm ở cửa kênh Vĩnh Tế để phối hợp với cánh quân thuỷ của PhraKlang sẽ đến đó.
Phía Đại Nam
Vua Minh Mạng được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân phòng ngự các nơi.
- Phía Tây Nam: Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân lấy quân ở Gia Định, giữ mặt An Giang. Sau có thêm Tống Phước Lương và Phạm Hữu Tâm cùng mang binh đến chi viện.
- Phía Tây Bắc: Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị.
- Phía Nghệ An: Phạm Văn Điển trấn giữ.
- Phía Trấn Ninh: Nguyễn Văn Xuân trấn giữ.
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Quân Xiêm chủ động tiến công[sửa | sửa mã nguồn]
Khi quân của Bodin tiến vào Campuchia thì quân Việt đóng tại đó đã rút về nước để tăng cường lực lượng chống Lê Văn Khôi. Cánh quân của Bođin tiến vào Campuchia một cách khá dễ dàng. Quân Xiêm chỉ gặp một cuộc chống cự duy nhất ở trận Kampong Chhnang, nơi mà quân Campuchia đã gấp rút tổ chức để cố gắng chặn đứng quân Xiêm nhưng không được. Sau trận đánh này, vua Ang Chan đó phải rời bỏ thủ đô Phnôm Pênh (Nam Vang) chạy đến ẩn náu ở dinh Long Hồ, Vĩnh Long[10]. Bodin cho hoàng tử Ang Em đóng ở thành Oudong, Ang Duong ở thành Nam Vang để thu phục dân chúng Chân Lạp.
Trong đợt tấn công đầu tiên, quân Xiêm làm chủ tình thế. Tháng 11, quân Xiêm chiếm được thành Nam Vang rồi chia quân làm hai đạo tiến vào Đại Nam. Cánh quân của Phraklang tràn vào Hà Tiên hầu như không gặp phải một sự kháng cự nào đáng kể. Tại mặt trận Hà Tiên, quân của Ngô Văn Loan hạ được ba tàu chiến của quân Xiêm, chặn đối phương được ít ngày nhưng thành Hà Tiên thất thủ.
PhraKlang để lại ở Hà Tiên một đội pháo nhỏ rồi theo kênh Vĩnh Tế tiến lên phía thành Châu Đốc để hội quân với Bodin từ Nam Vang theo sông Hậu tiến xuống. Tỉnh An Giang nhanh chóng thất thủ.
Quân Xiêm thừa thắng, từ Ba Nam[11], Chân Lạp cho chiến thuyền đổ xuống theo sông Tiền, tập trung quân, lập nhiều đồn ở hai bên bờ sông Thuận Cảng (Vàm Nao, An Giang)[12].
Quân Việt chống trả[sửa | sửa mã nguồn]
Tin cấp báo về đến Huế rằng quân Xiêm đang tấn công ồ ạt vào Hà Tiên, cả triều đình lẫn vua Minh Mạng vẫn còn "bán tín bán nghi". Tuy nhiên nhà vua vẫn khẩn cấp điều động một đơn vị cấm quân cùng 500 hương dũng dùng thuyền đi vào Nam Bộ. Đồng thời, vua Minh Mạng cấp cho tỉnh An Giang 10 chiến thuyền; các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường, Hà Tiên mỗi tỉnh 5 đến 7 chiếc; cấp cho Vĩnh Long 3000 cân thuốc súng; An Giang và Định Tường mỗi tỉnh 2000 cân, Hà Tiên 1000 cân; cấp đại bác mỗi tỉnh từ 5 đến 10 khẩu, số đạn mỗi khẩu 100 viên. Việc điều động được tiến hành một cách bí mật để nhân dân khỏi hoang mang lo sợ. Ngoài ra, vua Minh Mạng cũng lệnh cho các tỉnh An Giang, Hà Tiên, Định Tường bổ sung quân từ 200 đến 500 hương dũng nhằm chuẩn bị lực lượng để đến đóng giữ Nam Vang[13].
Sau đó, tại kinh đô Huế, Minh Mạng còn cấp tốc điều động 2 đại đội: thuỷ quân và lục quân, nhiều thuyền lớn, voi chiến, súng đạn và gần 10.000 quân được động viên từ các tỉnh đi vào Gia Định phối hợp với lực lượng tại chỗ chống lại quân Xiêm.
Cuối tháng 12 năm 1833, quân Đại Nam do Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân lãnh đạo tới An Giang, giao tranh với quân Xiêm ở Thuận Cảng. Quân Đại Nam lùi về sông Cổ Hỗ[14] để ngăn quân Xiêm. Hai bên cầm cự và giao tranh trên sông.
Cùng lúc quân Xiêm huy động nước Vạn Tượng mang hơn 1.000 quân tiến vào đất Quảng Trị. Minh Mạng cho rằng quân Xiêm chỉ hư trương thanh thế, mặt trận chính vẫn là phía nam, nên sai Vệ úy Lê Văn Thụy ra phòng giữ[15].
Vài ngày sau, quân Xiêm lại lấn vào Trấn Ninh ở Nghệ An. Quân Đại Nam do Nguyễn Đức Long chỉ huy lui về giữ động Giăng Màn. Quân Xiêm tiến về đóng khe Nhự Ổi rồi tiến vào bờ sông Hiển Bôn[16]. Dân huyện Cam Cát (tức Khăm Cợt hay Khamkheuth, tỉnh Bolikhamxai) và Cam Môn báo với trấn thủ Ngàn Phố (tức Hà Tĩnh). Bố chánh Nguyễn Đình Tân và án sát Võ Đĩnh bèn mang quân ra giữ. Quân Xiêm cũng án binh không tiến.
Nhằm phân tán lực lượng quân Nguyễn, và để Xiêm dễ dàng tập trung lực lượng giành chiến thắng ở chiến trường chính Hà Tiên và Campuchia, Rama III ra lệnh cho các đơn vị quân Xiêm-Lào từ Luang Prabang và Nông Khai (tức Nong Khai, Thái Lan) tập trung ở Trấn Ninh, Xiêng Khoảng [17] và các vùng biên giới Việt Nam từ Nghệ An đến Quảng Trị để tấn công, quấy rối, bắt người đem về.
Quân Xiêm tăng cường quấy rối các bản mường dọc biên giới Việt Lào trong quy mô lớn và tiến hành thực hiện chánh sách di dời người Phuôn (chủ yếu ở Trấn Ninh). Điều này đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh biên giới của Việt Nam, buộc các quan lại địa phương, có lúc cả triều đình Nguyễn phải tìm cách ứng phó giải quyết.
Theo "Đại Nam Thực Lục", cuối 12-1833 Xiêm đó cho quân xâm chiếm đất Trấn Tĩnh thuộc Nghệ An, đưa thư đòi Trấn Ninh phải nép những người dân Viêng Chăn còn lưu lại ở đó. Mặt khác, Xiêm tấn công phủ Trấn Định, xâm phạm các huyện Cam Lộ, Cam Cát, Cam Môn. Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1834, Xiêm tăng cường tấn công, quấy phá, bắt người ở các vùng nói trên càng quyết liệt hơn.
Tới tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834), thủy quân Xiêm từ Thuận Cảng (tức sông Vàm Nao) tiến đánh quân Đại Nam đang đóng ở rạch Củ Hủ[18]. Khi ấy, quân Xiêm nhân lúc nước xuống, theo bờ sông phóng hỏa đốt bè, ngăn trở thủy quân Việt rồi sấn tới đánh, Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, chém quân Xiêm chết nhiều.
Đề cập chiến công này, Minh Mạng chính yếu chép:
“ |
Giặc Xiêm dẫn binh thuyền hơn trăm chiếc, từ Thuận Cảng xuôi xuống, bày ngang giữa dòng sông để chống lại thuyền của quân ta, lại đánh đồn của ta đóng bên tả ngạn. Quản vệ giữ đồn là Phạm Hữu Tâm chống đánh, chém kẻ cầm đầu của giặc là Phi Nhã Khổ Lặc. Giặc dựng trại ngang đồn, ngày đêm dùng đại bác bắn phá. Ta chờ quân chi viện, nhưng giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối, thừa lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng lửa đốt thuyền quân ta, rồi giặc đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh từ giờ dần đến giờ Tỵ, quân giặc chết nhiều, thây chồng lên nhau. Giặc liền lui...
| ” |
— Minh Mạng chính yếu[19]
|
Đại Nam Thực Lục thì chép:
Trước kia bọn Giảng từ Thuận Cảng lui đóng ở sông Cổ Hỗ, đặt đồn ở hai bên bờ làm thế ỷ giốc. Sau đó vài ngày, Tướng quân Tống Phước Lương lại đến. Giặc Xiêm dẫn hơn 100 binh thuyền từ Thuận Cảng xuống, dàn ngang giữa dòng sông, cầm cự chu sư của ta, lại vây đánh đồn ở bờ bên tả. Quản vệ giữ đồn là Phạm Hữu Tâm cự chiến, chém được tên đại đầu mục giặc là Phi Nhã Khổ Lạc và hơn 20 đầu giặc. Giặc dựng trại đối diện với lũy ta, ngày đêm bắn đại bác. Quân ta có người bị thương và chết. Bọn Giảng cho rằng thế giặc đương dữ tợn hung hăng, bèn phi tư cho quân thứ Gia Định phái thêm binh thuyền đến tiếp ứng. Bấy giờ vừa gặp Tham tán Hồ Văn Khuê đến quân thứ. Trần Văn Năng liền bàn, uỷ [Văn Khuê] đi giúp việc quân. Lại phái Phó vệ úy vệ Hậu thủy Nguyễn Tiến Khoan đem hơn 300 binh dõng và 7 chiếc thuyền, đồng thời cùng tiến. Rồi đem việc tâu lên.
Quân Việt phản công[sửa | sửa mã nguồn]
Quân các tỉnh phía Đông Campuchia dưới sự chỉ huy của viên quan Campuchia là Chakrey Long[20] và Yumreach Hu[21] nhanh chóng tổ chức lực lượng, trang bị vũ khí đánh tan được một đội quân Xiêm ở tỉnh Prey Veng. Nhờ thắng lợi này quân Campuchia nhiều nơi khác cùng phối hợp với quân Việt đánh các đội quân khác của Xiêm. Lúc này Bodin rất khó khăn vì đội tàu đánh trong sông của ông đang bị tổn hại nặng trong trận thuỷ chiến, tinh thần quân Xiêm hết sức hoang mang. Nhất là khi các cánh quân thuỷ, bộ của triều đình Huế đến nơi, làm cho tinh thần quân Xiêm càng thêm nao núng.
Quân Xiêm sau đó từ Thuận Cảng lui quân rút lên Châu Đốc, quân Đại Nam thừa thế ngược sông Tiền, sông Hậu tiến lên. Đại Nam Thực Lục chép:
Giặc Xiêm lui về đồn Châu Đốc. Trước đây, quân giặc đánh nhau với quân ta ở Tiền Giang, bị thua luôn, định rút lui, bèn ngầm đem 1 cánh quân Đà Đạo (thuộc địa giới Định Tường) ở bên hữu sông, chực đánh úp đồn hữu ngạn, nhưng biết ta đã phòng bị trước, nên cuối cùng mưu không thành, bèn dốc hết quân hướng về đồn tả ngạn, hò la bắn súng, làm ra dáng định cướp trại: từ sáng sớm đến canh tư mới im tiếng súng. Khi quan quân biết thì giặc Xiêm đã lìa trại, bỏ xác chết mà đi rồi. Tham tán Nguyễn Xuân liền đem vài chục binh thuyền riêng đi đến địa phận thủ sở Tân Châu ở thượng du để ngăn chặn. Bọn Tham tán Trương Binh Giảng, Hồ Văn Khuê và Tán tương Trương Phước Đĩnh đồng thời đốc thúc, đại đội binh thuyền do Thuận Cảng qua Hậu Giang, đuổi theo đến sông Châu Đốc, thì giặc đóng đồn ở bờ sông chống cự lại. Bọn Giảng sai Phạm Hữu Tâm và Thái Công Triều tiến đánh. Triều, một mình đi thuyền Cự Hải sấn lên trước. Giặc dùng súng lớn, súng nhỏ bắn loạn xạ. Quân ta nhiều người thương vong. Triều cũng bị thương. Ta bèn chia quân đóng giữ trên bờ và dàn chu sư ở trong sông, tùy cơ đánh dẹp. Rồi làm sớ tâu lên.
Về phía quân Xiêm, tại Châu Đốc, Bođin và Phraklang khi bàn bạc kế hoạch tấn công Gia Định, Phraklang cho rằng cơ hội chiến thắng tương đối nhỏ và tinh thần binh lính lúc đó đã suy sụp, lương thực và đạn dược đã bị cạn kiệt, nên ông đề nghị tổ chức một cuộc rút quân bí mật. Mặc dầu Bođin không đồng ý, song Phraklang vẫn bí mật cho quân thuỷ rút khỏi Châu Đốc. Vì vậy, số quân Xiêm còn lại ở Việt Nam chỉ khoảng 10.000 quân bộ đang trong tình trạng hoang mang, lo lắng và bị quân Nguyễn bao vây. Trong tình cảnh đó, Bođin đã hạ lệnh cho quân Xiêm bí mật rút lui sau khi phóng lửa đốt hết kho tàng, nhà cửa... Khi quân Nguyễn vào chỉ thu được 8 cỗ súng hồng y và 90 phương muối, còn tiền bạc, thúc gạo đó bị đốt cháy gần hết[22].
Đạo quân của Bodin rút về Campuchia theo đường bộ, vượt qua Prey Kabbas để đi về Battambang. Preah Ang Kêv Ma được lệnh rút chạy trước về Phnôm Pênh và U Đông để báo cho Ang Im và Ang Đuông về tình hình của quân Xiêm để hai anh em Ang Im và Ang Đuông tìm cách rút lui về Xiêm [23]. Còn thuỷ quân của Phraklang rời bỏ Hà Tiên theo đường biển để về Xiêm.
Thừa thắng, quân Việt thu phục thành Châu Đốc[24], tiến công lấy lại thành Hà Tiên rồi cùng lực lượng quân Chân Lạp tiến đánh chiếm lại thành Nam Vang. Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân lại tiếp tục truy đuổi. Sau khi quan quân Việt thắng liền mấy trận, chém tướng bắt binh, thu được nhiều khí giới, lấy lại thành Phú Túc (Pursat), liền cho người Chân Lạp đóng giữ các nơi hiểm yếu. Minh Mạng gửi thư khích lệ phong chức cho các tướng người Chân Lạp[25].
Quân Nguyễn tiếp tục truy kích quân Xiêm đến tận biên giới Campuchia-Xiêm, đồng thời đưa Ang Chan trở lại ngôi vua. Cho đến đầu tháng 3-1834 tướng Xiêm Bođin mới trở về được Battambang với khoảng 3.000 tàn quân, sau khi đã bị thiệt hại nặng nề[26]. Toán quân này được chia làm bốn nơi đóng giữ Battambang mà không trở về Xiêm. Em của vua Rama III là Thôn-kha-long-danh-hoà từ Băng Cốc đem 2.000 quân đến đóng ở Bồn Khương hỗ trợ, truyền hịch giục Bođin về. Bodin không chịu về, lấy lý do rằng "quyết lấy cho được Chân Lạp, thề chẳng về nước Xiêm" [27]. Theo sử liệu triều Nguyễn thì cho rằng: Bođin không chịu về chẳng qua ông ta "sợ bại trận trở về chẳng được người nước (Xiêm) đếm xỉa đến nữa".
Trong khi đó tại mặt trận Quảng Trị, Vệ úy ở Cam Lộ của Đại Nam là Lê Văn Thụy ra quân đánh quân Xiêm ở Thú Kê giành thắng lợi. Lê Văn Thụy đánh tiếp đồn Tầm Bồn, Mang Bổng. Quân Xiêm bỏ đồn chạy về. Quân Xiêm chưa ngưng chiến, lại mang 5.000 quân đánh đồn Công Nhạc thuộc châu Mang Bổng và đạo Cam Lộ. Lê Văn Thụy lại ra quân đánh lui địch, bắt được tướng Xiêm là Mạc Sát Khôn La Mân và tướng Khiếu, thu được nhiều súng. Tháng 2 năm 1834, quân Xiêm lại đánh vào châu Ba Lan ở Cam Lộ nhưng cũng bị Lê Văn Thụy, Phạm Phi, Nguyễn Cửu Đức...đánh lui.
Tại Trấn Ninh, Nghệ An, Phạm Văn Điển được lệnh ra chi viện cho Nguyễn Đức Long, Lê Thuận Tĩnh. Tháng 2 năm 1834, Lê Thuận Tĩnh đụng độ quân Xiêm ở động Giăng Màn bị bại trận, tướng Phan Văn Sĩ tử trận. Quân Đại Nam phải lui về giữ ở Trú Cẩm. Minh Mạng lại cử Nguyễn Văn Xuân ra chi viện đánh lui quân Xiêm.
Đánh giá trận thủy chiến chính trong cuộc đối đầu này, nhà văn Sơn Nam viết:
“ |
Trận thủy chiến trên Vàm Nao là trận ác chiến, mang tầm chiến lược quan trọng. Quân Xiêm dùng hỏa công, thả bè lửa, theo nước ròng (nước kém) chảy xiết để đốt chiến thuyền quân Việt. Trận chiến kéo dài từ khoảng 3 giờ khuya đến 10 giờ trưa mới dứt. Nếu quân Việt không ngăn được, quân Xiêm sẽ xuống Sa Đéc rồi Rạch Gầm, Mỹ Tho...
| ” |
— Sơn Nam[28]
|
Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]
Quân Xiêm sang đánh (lần hai) từ tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834), đến tháng Năm năm ấy, thì quân nhà Nguyễn đã bình xong cả mọi nơi. Vua Minh Mạng mừng rỡ, ban thưởng cho các tướng sĩ và bố cáo ra cho mọi nơi đều biết.[29]
Quân Xiêm rút lui, quân nổi dậy của Lê Văn Khôi ở thành Phiên An cũng không còn lực lượng hỗ trợ, chỉ có thể cố thủ trong thành cho tới khi thành bị hạ vào tháng 9 năm 1835.
Khi rút chạy, PhraKlang cướp thuyền biển và mang theo 2.000 người Việt, phần lớn theo đạo Thiên Chúa (ít nhiều có liên hệ với cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi) đưa về sống ở ngoại thành Băng Cốc[30]. Về sau Xiêm sử dụng số người này để phá rối vùng biên giới Việt Nam-Campuchia. Trước khi rời bỏ Phnôm Pênh, quân Xiêm đốt cháy và phá huỷ dinh thự của vua Ang Chan, đồng thời tranh thủ thời cơ, lợi dụng tình thế khi rút lui để bắt dân Khmer sống dọc bờ sông Tonle Sap và một vài nơi khác đưa về Xiêm [31].
Cuộc tấn công bất ngờ của Xiêm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến bang giao hai nước. Hai nước cắt đứt quan hệ, bắt đầu một thời kỳ căng thẳng, xung đột và chiến tranh trên đất Campuchia kéo dài hơn 10 năm (từ cuối năm 1833 cho đến đầu năm 1847). Thắng lợi của cuộc chiến này đem lại cơ hội cho Đại Nam dưới thời vua Minh Mạng, được quyền bảo hộ phần lớn đất đai của Cao Miên như trước. Sau chiến thắng này, Minh Mạng quyết định nhập toàn bộ vùng đất Cao Miên nằm trong quyền bảo hộ của Đại Nam vào lãnh thổ Đại Nam và đổi tên là Trấn Tây thành, khi Ang Chan II mất, mà không có con trai nối dõi.
Năm Minh Mạng thứ 16 (1836), Trương Minh Giảng đã dâng biểu xin được vua Minh Mạng chia Cao Miên thành 33 phủ là: Nam Vang, Kỳ Tô (Thời Thâu), Tầm Đôn (Tầm Giun), Tuy Lạp (Xui Rạp), Ba Nam (Ba Cầu Nam), Ba Lại (Ba Lầy), Bình Tiêm (Bông Xiêm), Kha Bát (Lợi Ỷ Bát), Lư Viên, Hải Đông (Bông Xui), Hải Tây (Phủ Lật), Kim Trường, Thâu Trung (phủ Trung), Ca Âu (Ca Khu), Vọng Vân, Trung Hà, Trưng Lai (Trưng Lệ), Sơn Phủ, Sơn Bốc, Tầm Vu (Mạt Tầm Vu), Khai Biên, Kha Lâm (Ca Rừng), Ca Thê, Lạp Cẩm, Bài Lô, Việt Long, Tôn Quảng, Biên Hóa, Di Chấn Tài, Ý Dĩ (Phủ Phủ), Chân Thành (Châu Chiêm) (sau thuộc huyện Hà Dương An Giang), Mật Luật (sau thuộc huyện Tây Xuyên An Giang), Ô Môn (sau thuộc huyện Phong Phú An Giang), và 2 man là Cân Chế và Cân Dò, rồi cử quan cai trị. Phế bỏ tước hiệu quan chức bản địa của Cao Miên, áp dụng quan chế nhà Nguyễn: cử Lê Đại Cương (sau được thay bằng Dương Văn Phong) làm Tham tán đại thần, cắt đặt các chức hiệp tán, đề đốc, lãnh binh, lang trung, viên ngoại lang, giáo thụ huấn đạo,... Dùng người Cao Miên làm bia tập bắn cho quân sĩ Việt. Lòng dân Cao Miên không phục, nhưng Trương Minh Giảng vẫn tâu về triều là họ tín phục.[32]
Nhận định về việc cai trị của Đại Nam ở Cao Miên thời Minh Mạng[sửa | sửa mã nguồn]
Phê phán việc quan lại Việt sang Chân Lạp làm nhiều điều trái lẽ, sử gia Trần Trọng Kim viết:
- Ấy cũng là vì người mình (người Việt) không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức hiếp người ta (Chân Lạp), cho nên thành ra hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt hại cho nước mình.[33]
Sử gia Phạm Văn Sơn nhận định:
- Tiếc rằng sau chiến thắng 1834, do không biết lựa chọn cán bộ hay không có cán bộ đứng đắn, liêm chính nên Việt Nam bị đánh bật ra khỏi Trấn Tây thành phải coi là một sự xấu hổ cho triều đình thuở ấy. Và việc này đã chứng minh rõ rằng đường lối chính trị của vua Minh Mạng quá dở và đám quan lại của triều đình thật là bất tài vô hạnh. Vì họ mà nhà nước phải hao tổn biết bao nhiêu binh tướng, tài sản và tính mạng của nhân dân...
Chiến tranh Việt – Xiêm (1833-1834) Một phần của Xiêm La xâm lược Đại Nam Thời gian 1833-1834 Địa điểm Đại Nam Kết quả Quân Việt chiến thắng Tham chiến Nhà Nguyễn Xiêm La | Triều Rattanakosin Chỉ huy Chỉ huy chính: Chỉ huy chính: Lực lượng Không rõ trên 5 vạn quân
khoảng 100 chiến thuyền.Tổn thất Số quân thương vong và thiệt hại khác không rõ. Tướng Phi Nhã Khổ Lặc tử trận. Số quân thương vong và thiệt hại khác không rõ. - Nguồn : Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
ĐEM VIỆC LÀM VỀ VỚI BÀ CON QUÊ MÌNH
KHI BẠN THÀNH CÔNG.HÃY QUAY LẠI GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC
GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC LÀ GIÚP CHÍNH MÌNH
ĐỪNG QUÊN LÝ DO BẠN ĐƯỢC SINH RA
TRƯỞNG THÀNH TỪ ĐÂY
CỐ GẮNG VÌ TƯƠNG LAI SAU NÀY CỦA CẢ VÙNG ĐỒNG BẰNG
TÔI YÊU QUÊ TÔI
ĐÓ LÀ NƠI TÔI ĐƯỢC SINH RA
ĐẠI LÝ NỆM HỮU LỘC
21 LÊ LỢI CHÂU ĐÔC CITY AN GIANG PROVINCE. HÂN HẠNH ĐƯỢC GIÚP ĐỠ BÀ CON QUÊ MÌNH.